Thuốc E-Novo 400IU phòng và điều trị thiếu vitamin E (Hộp 2 vì x 15 viên)
Chi tiết sản phẩm
Thành phần
Mỗi viên nang mềm chứa:
Hoạt chất: D-alpha tocopheryl acetat 400 IU.
Tá dược: Dầu đậu nành, gelatin, glycerin, sorbitol, natri methylparaben, natri propylparaben, vanilin, nước tinh khiết.
Chỉ định
Hỗ trợ bảo vệ da khỏi tia cực tím và các tác nhân oxy hóa, giúp làm đẹp da, căng mịn da, chống nám sạm.
Điều trị thiếu hụt vitamin E trong trường hợp bị rối loạn hấp thu, xơ nang, ứ mật mãn tính và bệnh thiếu betalipoprotein-máu.
Hỗ trợ ngăn ngừa các bệnh mãn tính như suy giảm nhận thức ở người già, tim mạch, ung thư, thoái hóa võng mạc, đục thủy tinh thể.
Liều lượng và cách dùng
Uống mỗi viên nang một lần mỗi ngày, tốt hơn khi uống cùng với bữa ăn, hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Chống chỉ định
Những bệnh nhân có hiện tượng quá mẫn với vitamin E
Tác dụng không mong muốn
Vitamin E thường dung nạp tốt, tác dụng phụ chỉ xảy ra khi dùng liều cao, kéo dài, với các biểu hiện trên đường tiêu hóa như: buồn nôn, ỉa chảy, đau bụng, rối loạn tiêu hóa. Cơ thể có thể mệt mỏi, yếu.
Thận trọng và cảnh báo
Việc bổ sung liều cao vitamin E nên được ngưng khoảng 1 tháng trước khi phẫu thuật và có thể tiếp tục khi đã phục hồi lại sức khỏe sau cuộc phẫu thuật.
Bệnh nhân bị dị ứng với đậu nành không nên sử dụng thuốc này.
Bệnh nhân mắc các rối loạn di truyền hiếm gặp về dung nạp fructose không nên sử dụng thuốc này.
Vitamin E đã được báo cáo có xu hướng làm tăng chảy máu ở những bệnh nhân thiếu vitamin K hoặc những người đang điều trị chống đông máu, vì thế rất cần theo dõi thời gian prothrombin và chỉ số bình thường hóa quốc tế (INR) để phát hiện bất kỳ thay đổi nào trong việc cầm máu. Điều chỉnh liều lượng của thuốc chống đông máu trong và sau khi điều trị bằng E-NOVO là cần thiết.
Vitamin E đã được báo cáo làm tăng nguy cơ huyết khối ở bệnh nhân dễ mắc phải tình trạng này, trong đó có bệnh nhân sử dụng estrogen. Phát hiện này chưa được thừa nhận nhưng cần lưu ý khi lựa chọn thuốc cho bệnh nhân, đặc biệt là ở phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai chứa estrogen.
Trẻ đẻ non có cân nặng thấp (dưới 1,5 kg) khi được điều trị bằng vitamin
E gây ra viêm ruột hoại tử với tỷ lệ mắc phải cao hơn so với những đứa trẻ bình thường.
Phụ nữ có thai và cho con bú
Không có bằng chứng về tính an toàn khi sử dụng liều cao vitamin E đối với phụ nữ có thai và trên động vật thử nghiệm, vì thế thuốc không dùng cho phụ nữ có thai, đặc biệt là trong ba tháng đầu. Không có thông tin về bài tiết thuốc qua đường sữa mẹ, do đó không nên sử dụng thuốc trong thời gian cho con bú.
Ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc
Chưa có báo cáo.
Quá liều và xử trí
Các rối loạn về dạ dày-ruột có thể xảy ra bao gồm đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy. Nếu cần thiết, các biện pháp hỗ trợ nên được sử dụng.
Dược lý
Dược động học
Hấp thu: Để vitamin E hấp thu qua đường tiêu hóa, mật và tuyến tụy phải hoạt động bình thường. Lượng vitamin E hấp thu giảm khi liều dùng tăng lên. Khoảng 20 – 60% vitamin được hấp thu từ nguồn thức ăn. Ở người bệnh bị hội chứng hấp thu kém và trẻ đẻ non nhẹ cân, hấp thu vitamin E có thể giảm đi rất nhiều. Chế phẩm dạng phân tán trong nước có thể hấp thu qua ruột tốt hơn so với chế phẩm dạng dầu.
Phân bố: Thuốc vào máu qua vi thể dưỡng chấp trong bạch huyết rồi được vận chuyển tới gan. Vitamin E được tiết ra từ gan dưới dạng lipoprotein tỷ trọng thấp (VLDL) và nồng độ vitamin E trong huyết tương phụ thuộc vào sự tiết này. Chỉ 1 dạng đồng phân lập thể R-α-tocopherol được gan tái xuất tiết nhờ vào ái lực của alpha tocopherol đối với protein vận chuyển α-tocopherol của gan (α- TTP: α-tocopherol transfer protein). Vitamin E sau đó được phân bố rộng rãi vào tất cả các mô và dự trữ ở mô mỡ. Nồng độ bình thường của tocoferol trong huyết tương là 6 – 14 microgam/ml. Nồng độ vitamin E trong huyết tương dưới 5 microgam/ml hoặc dưới 800 microgam vitamin E/g lipid trong huyết tương trong vài tháng được xem như là phản ánh sự thiếu hụt vitamin E. Sau khi uống vitamin E liều cao, nồng độ tocopherol trong huyết tương có thể bị cao lên trong 1 – 2 ngày. Tổng dự trữ vitamin E trong cơ thể ước lượng 3 – 8 g và có thể đáp ứng được nhu cầu cơ thể trong 4 năm hoặc hơn khi chế độ ăn nghèo vitamin. Alpha tocopherol phân bố vào mắt, đạt được nồng độ cao hơn ở vùng giác mạc so với màng mạch hoặc thủy tinh thể. Nồng độ này có thể tăng lên khi bổ sung vitamin. Vitamin E vào sữa, nhưng rất ít qua nhau thai. Nồng độ tocopherol trong huyết tương trẻ sơ sinh bằng 20 – 30% nồng độ ở người mẹ, trẻ sơ sinh nhẹ cân có nồng độ thấp hơn.
Thải trừ: Vitamin E chuyển hóa ở gan thành các glucuronid của acid tocopheronic và gamma-lacton của acid này, hầu hết liều dùng thải trừ chậm vào mật. Một số thải trừ qua nước tiểu.
Dược lực học
Vitamin E là một thuật ngữ chung để chỉ một số các hợp chất thiên nhiên và tổng hợp. Nhóm chất quan trọng nhất là tocopherol, trong đó alpha tocopherol có hoạt tính mạnh nhất, được phân bố rộng rãi trong tự nhiên và chủ yếu được sử dụng trong điều trị; các chất khác của nhóm tocopherol gồm beta, gamma và delta tocopherol, nhưng những chất này không dùng trong điều trị. Nhóm hợp chất khác có hoạt tính vitamin E là các tocotrienol.
Alpha tocopherol có trong tự nhiên dưới dạng đồng phân d (d-alpha tocopherol) có hoạt tính mạnh hơn dạng đồng phân dl (dl-alpha tocopherol) của alpha tocopherol tổng hợp.
Vitamin E là một vitamin tan trong dầu mỡ, phân bố rộng rãi trong thức ăn. Nguồn vitamin E giàu nhất là dầu thực vật, đặc biệt là dầu mầm lúa mì, dầu hướng dương, dầu hạt bông; ngũ cốc và trứng cũng là nguồn giàu vitamin E. Lượng vitamin E trong thức ăn bị mất đi là do quá trình bảo quản và nấu nướng. Nhu cầu hàng ngày về vitamin E khoảng 4 – 15 mg.
Thiếu vitamin E rất hiếm, chỉ xảy ra ở những người không có khả năng hấp thu vitamin E hoặc mắc 1 số bệnh di truyền ngăn cản duy trì nồng độ bình thường vitamin E trong máu.
Chức năng sinh học chính xác của vitamin E chưa được biết đầy đủ ở người. Vitamin E được coi là một chất chống oxy hoá. Vitamin E ngăn chặn sự oxy hoá các acid béo cao phân tử chưa bão hoà (các acid này là thành phần của màng tế bào, phospholipid và lipoprotein huyết tương) cũng như các chất nhạy cảm với oxy khác như vitamin A và acid ascorbic (vitamin C). Các gốc tự do sinh ra do nhiều quá trình phản ứng trong tế bào có khả năng gây tác hại cho màng tế bào, protein và acid nucleic, dẫn đến rối loạn chức năng và gây bệnh cho tế bào. Vitamin E phản ứng với các gốc tự do, làm mất các gốc peroxyl (gốc peroxyl phản ứng với vitamin E nhanh gấp 1000 lần so với các acid béo cao phân tử chưa bão hoà). Trong quá trình phản ứng, vitamin E không tạo thêm gốc tự do khác.
Do tính chất chống oxy hoá của vitamin E, đã có nhiều công trình nghiên cứu dùng vitamin E để làm làm giảm nhẹ chứng mất trí nhớ của bệnh Alzheimer sớm hoặc do lão hoá, bệnh thoái hoá hoàng điểm liên quan đến tuổi tác, ung thư, xơ cứng động mạch, bệnh mạch vành, đục thuỷ tinh thể… nhưng đến nay chưa được chứng minh hiệu quả rõ ràng. Một số nhà lâm sàng đã điều trị để làm giảm nguy cơ thoái hoá hoàng điểm liên quan đến tuổi tác như sau: Liều vitamin C 500 mg/ngày kết hợp với beta caroten 15 mg/ ngày, vitamin E 400 mg/ngày và kẽm (dạng kẽm oxyd) 80 mg/ ngày. Bệnh Alzheimer và bệnh động mạch vành: Liều từ 200 – 800 đvqt/ngày. Tuy nhiên hiện tại vẫn chưa đủ dữ liệu chứng minh hiệu quả điều trị của thuốc đối với các bệnh này và cần lưu ý liều 400 mg/ ngày trở lên có thể làm tăng tỷ lệ tử vong. In vitro, vitamin E còn có tác dụng ngăn chống tan hồng cầu do các chất oxy hoá và làm tăng đáp ứng miễn dịch ở người cao tuổi khoẻ mạnh, làm giảm kết tụ tiểu cầu.
Bảo quản
Trong bao bì kín, tránh ẩm, tránh ánh sáng, nhiệt độ dưới 30ºC.
Quy cách đóng gói
15 viên nang mềm/vỉ. Hộp 2 vỉ.